Mitsubishi Pajero

Chau@Xe

Administrator
mitsubishi-pajero-sport-min.jpg

Mitsubishi Pajero là mẫu xe thể thao đa dụng cỡ trung (giai đoạn đầu) và cỡ lớn (từ thế hệ thứ 3 trở đi) được lắp ráp bởi Mitsubishi Motors. Dòng xe còn được biết đến với tên gọi Mitsubishi Montero hay Mitsubishi Shogun tại một vài thị trường.

Chiếc Pajero I mẫu đầu tiên được giới thiệu lần đầu tại Tokyo Motor Show trong thời điểm tháng 11 năm 1973. Năm năm sau, đến lượt mẫu Pajero II trình làng. Mục tiêu của Mitsubishi là tạo nên một phương tiện mang ý nghĩa giải trí nhiều hơn chứ không phải chỉ là 1 trong con ngựa chỉ bíêt làm việc. Khi đó Mitsubishi Motors đã là đơn vị phân phối xe dẫn động 4 bánh lớn nhất nước Nhật trước Đệ nhị thế chiến.

Vào tháng Giêng năm 1983 , Pajero lần đầu tiên có mặt tại cuộc đua đường dài Paris-Dakar & giành vị trí thứ nhất vào năm 1985 chỉ sau 3 năm tham dự.

Đến nay, Pajero là chiếc xe thành công nhất ở cuộc đua Dakar Rally. Điều này không những đem lại cho Pajero là chiếc xe việt dã lừng danh mà còn giúp cho bộ phận…bán hàng. Bốn tháng sau, tháng 4 năm 1985, Pajero có được trang bị tiêu chuẩn mới: hộp số tự động 4 vận tốc và dây đai an toàn ELR tiêu chuẩn.

Mẫu xe Pajero được chế tạo qua bốn thế hệ:

  • Thế hệ thứ nhất: 1982 – 1991
  • Thế hệ thứ hai: 1991 – 1999
  • Thế hệ thứ ba: 1999 – 2006
  • Thế hệ thứ tư: 2006 – bây giờ

Rời thị trường Mỹ từ năm 2006, thế hệ thứ tư của Pajero vẫn tiếp tục được bán ra các thị trường khác trên thế giới. Địch thủ chính của Mitsubishi Pajero là Land Rover Discovery, Toyota Land Cruiser Prado, Nissan Patrol.

Mitsubishi Pajero thế hệ thứ I (1982 – 1991)


Thế hệ thứ nhất được giới thiệu lần đầu tại Tokyo Motor Show vào tháng 10 năm 1981 & đề ra Thị trường hồi tháng 5 năm 1982. Ban đầu, nó là mẫu 3 cửa, chiều dài cơ sở ngắn, mui mềm hay mui cứng cùng với 3 chọn lựa động cơ:

  • động cơ xăng 2.0 4 cylinder (2000/2.0)
  • động cơ diesel 2.3 (2300 D)
  • động cơ turbo diesel 2.3 (2300 TD/2.3 TD)

Xe được trang bị những tính năng chưa từng được thấy trước đó của dòng xe 2 cầu Nhật Bản: động cơ turbo diesel, hệ thống giảm xóc xương kép với lò xo xoắn ở phía đằng trước, trợ lực lái và ghế giảm xóc. Điều này làm cho Pajero là chiếc xe 2 cầu được tích hợp những tiện lợi của một chiếc xe khách.

Vào tháng Giêng năm 1983, chỉ một năm sau khi được giới thiệu, Pajero được cải biên nhẹ để bước vào thế giới xe Thể Thao. Mặc dù thế, Pajero thất bại trong chuyện gây sự lôi kéo đến mọi người. Nó luôn luôn là một chiếc xe Thương Mại & khi đó, nó chỉ có mẫu chiều dài cơ sở ngắn . Nó thật sự không cuốn hút đối với các gia đình

Vì lý do đó, tháng hai năm 1983, Mitsubishi ra mắt mẫu 5 cửa với chiều dài cơ sở lớn (LWB) để cung cấp nhu cầu lớn hơn của thị trường. Mẫu LWB có 2 lựa chọn động cơ khác nhau: động cơ turbo xăng 2.0 (có tên “2.0 Turbo” và “2000 Turbo” ở một số thị trường) và động cơ turbo diesel 2.3 (2.3 TD hay 2300 TD)

Mẫu LWB còn làm tăng số chỗ ngồi lên 7 chỗ với hàng ghế thứ 3, chúng hoàn toàn có thể gập sang lân cận ở khoang sau hay kểt phù hợp với hàng ghế thứ 2 để tạo ra chiếc giường.

Pajero được cải biên nhiều hơn thế nữa trong tháng 6 năm 1984. Động cơ turbo diesel nay có công suất cao hơn và mẫu LWB được trang bị tiêu chuẩn 4 phanh đĩa & thiết bị giảm xóc 4 đường điều khiển và tinh chỉnh được. (Trong khi con X và XX ở VN Trang bị phanh sau là…tang trống)

Một mẫu “flagship” được giới thiệu Vào đầu năm 1987 với sơn 2 tông màu, mâm hợp kim 15”, sưởi ghế trước, bọc ghế len, tựa đầu bọc da, vô lăng 3 chầu và hệ thống âm thanh radio/cassette.

Cuối cùng, vào năm 1988, có thêm lựa chọn động cơ 3.0 lít Sohc V6 ở bên cạnh động cơ turbo diesel 2.5 lít với hệ thống làm mát khí nạp 4x4 đầu tiên. Sự thay đổi này giúp xe có gia tốc tốt hơn ở số vòng quay trung bình đến cao. Mẫu LWB sử dụng nhíp lá cho hệ thống giảm xóc sau được thay thếbằng hệ thống giảm xóc lò xo đa điểm cho cảm xúc lái êm ái & tăng khả năng offroad.

Mitsubishi Pajero thế hệ thứ I (1982 – 1991)


Thế hệ đầu tiên của Pajero được giới thiệu vào ngày 7 tháng 5 năm 1982 và được lắp ráp đến năm 1991. Nó có mẫu 3 cửa chiều dài cơ sở ngắn (SWB) & 5 cửa cho LWB. Các động cơ bao hàm 2.4 L I4 110 mã lực, động cơ 3.0L V6 EFI 139 mã lực và động cơ turbo diesel 2.5L I4 OHV 83 mã lực hay động cơ có bộ điều hòa khí nạp 94 HP. Hệ thống 4 bánh chủ động bán thời gian được Trang bị tiêu chuẩn cho cả các mẫu xe.

kế tiếp nó được cấp phép để lắp ráp bởi Hyundai Precision Products với tên thường gọi Hyundai Galloper từ thời điểm năm 1991 đến năm 2003 và xuất khẩu sang Châu Âu trong một thời gian ngắn. Trong khi sử dụng các chi tiết cơ khí của thế hệ thứ nhất, thân xe Galloper được thiết kế càng ngày càng gần hơn với thế hệ Pajero thứ 2. Bởi thế khi phát hiện mấy chiếc Galloper ngoài đường, bạn sẽ thấy nó mang dáng dấp y chang như Pajero

Mitsubishi Pajero thế hệ thứ II (1991 – 1999)


Mitsubishi đã bán hơn 3000 chiếc Pajero trong năm 1989 và 1990. Dẫu thế, thời gian để thiết kế lại đã quá dài vì thế năm 1992, chiếc Pajero thế hệ 2 đầu tiên ra lò. Mọi thứ đều đựơc tinh chỉnh với chức năng cao hơn. Một thân xe mới lớn hơn cho 4 phiên bản: mui cứng, mui mềm, wagon mui bán cao & wagon mui cao (chiều dài cơ sở lớn). Mẫu SWB được kéo dãn dài thêm 70mm & mẫu LWB được kéo dài thêm 30mm. Động cơ được sử dụng là 3.0 lít 12 van Sohc với hệ thống phun nhiên liệu điện tử ECI và động cơ turbo diesel 2.5 với điều hòa khí nạp.

Thế hệ thứ 2 còn trình làng hệ thống gài cầu Super Select 4WD (SS4) (được biết đến với tên ActivTrak 4WD ở một vài thị trường) & hệ thống ABS đa chế độ được trang bị lần đầu tiên ở trên một chiếc xe 2 cầu Nhật Bản. SS4 có thể gài cầu rất nhạy. Nó kết hợp các ưu thế của hệ thống gài cầu bán thời gian và toàn thời gian với 4 chế độ: 2H (cầu sau vận tốc cao), 4H (2 cầu toàn thời gian vận tốc cao), 4HLc (2 cầu vận tốc cao với khoá vi sai trung tâm) & 4LLc (2 cầu vận tốc chậm với khoá vi sai trung tâm).

Một tiến bộ khác của hệ thống gài cầu thế hệ thứ 2 này là nó có thể chấp nhận được người điều khiển hoàn toàn có thể chuyển từ chế độ cầu sau sang 2 cầu toàn thời gian ở tốc độ lên tới 100 km/h. Ngoài ra Pajero thế hệ đầu tiên phải dừng lại trước lúc chuyển từ cơ chế cầu sau sang 2 cầu (nhưng từ 2 cầu sang cầu sau thì không cần). Hệ thống hệ thống phanh ABS đa cơ chế cũng chính là một cách tân gần giống. Điều này Tức là ABS chuyển động không bị thiếu tính năng của chính nó trong mọi chế độ gài cầu của SS4 vì phanh với khoá vi sai trung tâm có yêu cầu các thông số khác đối với bình thường.

Mitsubishi Pajero 1993


Vào tháng 7 năm 1993, 2 loại động cơ mới giới thiệu: động cơ 3.5L 24 van DOHC ECI & động cơ turbo diesel 2.8L với điều hòa khí nạp. Một hộp số mới lớn hơn dành cho các yêu cầu nâng cấp.

Vào năm 1993, Pajero có 1 chút ít biến đổi, những động cơ lớn hơn được ra mắt, một động cơ V6 3.5 với 205 mã lực & động cơ turbo diesel 2.8L với 123 mã lực. Các bản này đều được Trang bị hệ thống gài cầu Super Select (biết đến với tên Active-Trac tại Mỹ) với tác dụng chuyển cầu điện tử được cho phép chuyển qua 2 cầu mà Chưa hẳn dừng xe lại. Nó chuyển động ở vận tốc lên tới 100km/h.

Mitsubishi Pajero Evolution 1997


Chiếc Pajero Evolution được giới thiệu vào tháng 10 năm 1997, chiếc này được cải cách và phát triển để đáp ứng các yêu cầu khi nhập cuộc giải đua Paris – Dakar Rally hạng T3. Chiếc Pajero Evolution được trang bị tiêu chuẩn với động cơ V6 3.5L 24van Dohc với hệ thống MIVEC (Mitsubishi Innovative van Timing and Electonic Lift Control - tương đương VVTi của Toyota), một hệ thống khí nạp cửa kép biến hóa giúp tăng công suất & một hệ thống giảm xóc mới giúp xe dịch rời êm ái.

Mitsubishi Pajero 1998


Vào năm 1998, những chiếc Pajero được xuất khẩu đại trà & GCC (hội đồng các giang sơn Vùng Vịnh) nhận được những chiếc với mặt nạ mới, các vè hông rộng hơn, đèn trước mới, mặt nạ mới, cản, đèn pha sương & bệ bước hông. Túi khí dành cho vận hành xe & hành khách ngồi trước là trang bị tiêu chuẩn & thêm bộ cải tiến mới nội thất ốp gỗ. Trong khi là sự việc cải tiến mới bộ giảm xóc & hệ thống lái. Động cơ 3.0 12 van SOHC được nâng cấp lên 24 van.

Thế hệ thứ 2 được giới thệu vào ngày 22 tháng Giêng năm 1991 & sản suất đến năm 1999. Nó có 2 dạng thân xe nhưng dạng tròn nhỏ gần gũi với cuộc sống đời thường đô thị hơn dạng to lớn. Động cơ V6 3.0L cũng còn được sử dụng nhưng được nâng cấp lên 24 valve với công suất 183 HP Bên cạnh đó động cơ turbo diesel tăng một chút lên 98 Mã lực.

Pajero còn được bán ra với tên Hyundai Galloper ở Hàn Quốc & châu âu.

Một vài thông số:

Động cơ:

  • 5 TD
  • 8 TD
  • 0 V6
  • 5 V6
  • Hộp số: 5 cấp số sàn hoặc tự động 4 cấp.
  • Dài: 4705 mm (185.2 in) (LWB) & 4030 mm (158.7 in) (SWB)
  • Rộng: 1695 mm (66.7 in)
  • Cao: 1875 mm (73.8 in) (LWB) & 1850 milimet (72.8 in) (SWB)
  • Chiều dài cơ sở: 2725 milimet (107.3 in) (LWB) 2420 milimet (95.3 in) (SWB)

Mitsubishi Pajero thế hệ thứ III (1999 – 2006)


Thế hệ Pajero thứ 3 có mặt lần đầu ở thị trường nội địa Nhật vào năm 1999 & được giới thiệu trễ hơn đến các thị trường khác vào năm 2000 tư cách là mẫu 2001. Xe được thiết kế theo phong cách lại trọn vẹn, bên trong, phía bên ngoài & giờ đây có gầm xe thấp hơn, cao hơn. Trọng tâm thấp hơn có nghĩa chiếc Pajero có công dụng bám đường tốt hơn khi chạy trên đường (on-road). Ngoài ra thân xe mới vượt hơn 300% về khả năng chịu xoắn. Sự chuyển đổi lớn nhất được đem lại từ các việc Pajero sử dụng cấu tạo unibody trái với kết cấu body-on-frame của thế hệ trước. Đồng thời, điều đó giúp đem đến cho Pajero khoảng giảm xóc dài thêm hơn nữa. Bình xăng cũng được nghiên cứu sắp xếp giữa 2 trục để an toàn hơn.

Hệ thống gài 2 cầu Super Select cũng được thiết kế lại tốt hơn, bánh răng nón được sử dụng thay cho những bánh răng hành tinh. Điều này có nghĩa Momen xoắn từ trước ra sau được sắp xếp trong vòng từ 33 đến 67 với khả năng tinh chỉnh và điều khiển thành 50/50 tuỳ thuộc & điều kiện mặt đường. Hệ thống cũng có thiết kế điều khiển điện trọn vẹn, điều này có nghĩa xe không nhất thiết phải có số để thay đổi giữa các chế độ lái. Qua những nâng cấp này, hệ thống được lấy tên lại là Super Select 4WD II (SS II). Cùng với bệ bước hông và hệ thống lái pinion (được cho là hệ thống bi tuần hoàn lại trên thế hệ trước), Pajero đề nghị 3 loại hộp số: 5 số tay, 4 số tự động INVECS II & 5 số INVECS II tiptronic

Một động cơ hoàn toàn mới 3.8L SOHC 24 van V6 được ra mắt cùng với thế hệ này. Động cơ này sử dụng hệ thống đóng mở van điện tử ETV để phân phối công suất hiệu quả với sức mạnh dư thừa cho những chuyến offroad mạo hiểm.

Thế hệ thứ 3 được giới thiệu vào ngày 2 tháng 8 năm 1999 và được thay thếvào ngày thu 2006 bởi mẫu được tạo dáng vẻ lại vào năm 2003. Đây là mẫu quý phái nhất trong số những mẫu thế hệ thứ 3, vươn lên phân khúc cao hơn để tuyên chiến đối đầu và cạnh tranh với Land Rover Discovery. Nhưng cần thiết hơn, để đối đầu và cạnh tranh với sự phát triển của kình địch Toyota Land Cruiser.

Ở thị trường Nhật công suất động cơ 3.0 L giảm xuống 175 HP & động cơ 3.5L phun xăng trực tiếp có công suất tăng lên 220 Mã lực ( phiên bản xuất khẩu vẫn giữ động cơ EFI tiêu chuẩn với công suất 200 mã lực). Động cơ diesel 2.8L ở các thị trường đang được phát triển được thay thế bởi động cơ mới phun nhiên liệu trực tiếp 16 van 3.2 lít với 161 HP

Ở Thị trường Bắc Mỹ, động cơ 3.5 lít được thay thế thay thế vào năm 2003 bằng động cơ 3.8 lít mạnh mẽ hơn với 215 Mã lực. Động cơ này tiếp đến được dùng cho 1 số Thị trường xuất khẩu như Nam Mỹ & Australia. Ngoài ra, ở Nhật, nó được thay thế bởi động cơ GDI V6 vào năm 2005. Kiểu SWB dừng chế tạo ở Thị trường Bắc Mỹ, nơi Montero là chiếc xe Sport việt dã duy nhất của Mitsubishi với trang bị 4 bánh chủ động tiêu chuẩn. Đương đầu với doanh số sụt giảm, 2006 rất có thể là năm ở cuối cùng của Montero ở Thị trường Bắc Mỹ.

Động cơ:

  • 5 TD
  • 2 Di-D
  • 0 V6
  • 5 V6
  • 5 V6 GDI
  • 8 V6

Hộp số:

  • 5-speed manual
  • 4-speed auto
  • 5-speed auto
  • Dài: 4800 mm (188.9 in) (LWB), 4220 mm (92.5 in) (SWB)
  • Rộng: 1875 mm (73.9 in)
  • Cao: 1855 milimet (73.1 in) (LWB), 1845 milimet (72.7 in) (SWB)

    Chiều dài cơ sở: 2780 mm (109.5 in) (LWB), 2350 mm (92.5 in) (SWB)

Mitsubishi Pajero thế hệ thứ IV (2006 – nay)


Thế hệ Pajero thứ 4 được giới thiệu tại Paris Motor Show vào ngày 30 tháng 9 năm 2006.Nội ngoại thất có thiết kế mới cùng với sự tăng thêm hệ thống an toàn với túi khí 2 tầng SRS phía trước & túi khí màn và tác động cạnh.

Hệ thống Super Select 4WD II đựơc giữ lại nhưng được bổ sung cập nhật bởi sự nâng cao hệ thống điều khiển sức kéo & ổn định ASTC và hệ thống phân phối lực phanh điện tử EBD. Động cơ được nâng cấp với động cơ diesel 3.2 L với công suất 167 HP và động cơ V6 3.8L MIVEC làm tăng công suất lên đến 247 Mã lực. Cả 2 động cơ đều cung cấp tiêu chuẩn khí thải Euro IV. Động cơ 3.0L vẫn được sử dụng cho Thị trường Nhật.

Lần đầu tiên kể từ thời điểm năm 2000, Mitsubishi lắp ráp đồng thời cả 2 bản SWB 2 cửa và LWB 4 cửa. Nhìn tổng thể, cả 2 giống y tương đồng với trang bị mâm hợp kim 18 inch mới.

Động cơ:

  • 2 Di-D
  • 0 V6
  • 8 V6

Hộp số:

  • 5-speed manual
  • 4-speed auto
  • 5-speed auto
  • Dài: 4900 milimet (192.9 in)
  • Rộng: 1875 milimet (73.8 in)
  • Cao: 1900 mm (74.8 in) (LWB), 1880 mm (74.0 in) (SWB)
  • Chiều dài cơ sở: 2780 mm (109.8 in) (LWB), 2545 mm (100.2 in) (SWB)

Mitsubishi Pajero PHEV Plug in Hybrid 2014


Hồi tháng 10 năm 2014, Mitsubishi đã ra mắt Pajero thế hệ tiếp theo sau sẽ có phiên bản Plugin Hybrid, dự kiến ra mắt Thị trường vào năm 2018. Cùng theo với Pajero được cung cấp năng lượng thông thường. Concept GC-PHEV có hệ thống truyền động điện / động cơ điện /động cơ MIVEC V-6 Siêu nạp (PHEV), hộp số tự động 8 cấp, điều khiển siêu bánh xe (S-AWC) của Mitsubishi thời gian tất cả các bánh lái.

Trong Triển lãm xe hơi Tokyo 2015, chủ tịch và giám đốc điều hành của Mitsubishi, Tetsuro Aikawa, đã chứng thực rằng Pajero mẫu hiện tại sẽ thường xuyên được chế tạo trong một thời gian, nhưng phủ nhận loại trừ rằng chiếc xe địa hình cỡ lớn sẽ ảnh hưởng mất khỏi kế hoạch dài hạn của Mitsubishi.

Sau thời điểm Mitsubishi gia nhập Liên minh Renault-Nissan-Mitsubishi thông qua việc kiểm soát điều hành 33% cổ phần của Nissan, dự kiến Pajero thế hệ tiếp theo sẽ chia sẻ cùng nền tảng với Nissan Patrol thế hệ tiếp theo sau .

Mitsubishi Pajero Sport


Dòng xe Pajero Sport được biết đến với 2 thế hệ. Thế hệ đầu từ 1996 – 2008, thế hệ thứ 2 kế tiếp từ 2008 – nay

Mitsubishi Pajero Sport thế hệ thứ I (1996 – 2008)


Lần thứ nhất được lắp ráp là tại Nhật Bản vào năm 1996 & được xuất khẩu đi phần đông các thị trường trên thế giới vào năm 1997. Tại các thị trường này, xe có các tên gọi khác nhau như Challenger, Pajero Thể Thao ở Châu Âu , Montero Thể Thao ở Bắc Mỹ và Nam Mỹ, Nativa ở một số trong những khu vực tại Trung Mỹ và Trung Đông, Shogun Sport ở nước anh và G-Wagon ở Thái Lan. Thế hệ đầu tiên của Pajero Sport được chế tạo dựa ở trên chiều dài cơ sở của xe Pajero thế hệ thứ hai. Cũng như Pajero, thế hệ thứ nhất này của Pajero Sport có hệ thống treo trước là loại độc lập dùng thanh xoắn và cầu sau là dòng cầu cứng. Ngoài nhiều lần thay đổi vẻ ngoài qua các năm, có 1 sự chuyển đổi đáng kể của hệ thống treo sau từ loại nhíp lá sang loại lò xo xoắn vào thời điểm cuối năm 2000. Khi Pajero Sport trở nên thịnh hành hơn vậy thì nó bước đầu được lắp ráp tại chỗ để bán trên các Thị trường quốc tế như ở Trung Quốc từ thời điểm năm 2003 và ở Brazil từ thời điểm năm 2006. Pajero Sport thế hệ đầu tiên không hề được bán tại Nhật Bản từ năm 2003, tại Bắc Mỹ từ năm 2004 (ở đây nó được thế chỗ bởi Endeavor) và tại Trung Âu và Tây Âu từ thời điểm năm 2008.

Mitsubishi Pajero Sport thế hệ thứ II (2008 – nay)


Thế hệ thứ hai của Pajero Sport xây đắp dựa ở trên sườn xe hình thang của Mitsubishi Triton được lần lượt ra mắt cho một số thị trường (Nga, Đông Nam Á, Trung Đông, Mỹ Latinh, Châu Phi & Châu Đại Dương) vào mùa thu năm 2008 sau thời điểm công bố công chúng lần đầu tiên tại Triển lãm xe hơi quốc tế Matxcova. Giống hệt như thế hệ đầu tiên, thế hệ thứ hai của Pajero Sport có các loại xe 5 chỗ hoặc 7 chỗ, máy dầu 2.5 hoặc 3.2 lít và máy xăng V6 3.0 hoặc 3.5 lít. Cùng với bán tải Triton (là loại xe mà Pajero Sport đã được phát triển từ đó). Thế hệ mới của Pajero Sport được tập trung sản xuất ở Thái Lan để xuất khẩu đi toàn bộ các thị trường trên toàn cầu.

Ở việt nam, Pajero Sport được lắp ráp, chế tạo tại nhà máy ở Bình Dương của công ty TNHH liên doanh chế tạo xe hơi Ngôi Sao (VINASTAR), một liên doanh của ô tô Mitsubishi. Ngày 29/08/2011, Pajero Sport bắt đầu được VINASTAR trình làng tại Thị trường nước ta sau lần ra mắt công chúng tại Triển lãm xe ôtô nước ta 2010 vào ngày thu năm 2010 tại Hà Nội.

Nếu bạn yêu thích nội dung này & cần sử dụng trên website của bạn,

Vui lòng xem thông tin [HỖ TRỢ] & ghi rõ nguồn XEtv.vn
 

Bài viết mới

Bên trên