Mitsubishi Triton

Chau@Xe

Administrator
Mitsubishi-Triton-min.jpg

Mitsubishi Triton

Mitsubishi Triton là mẫu bán tải cỡ nhỏ được đưa vào lắp ráp từ năm 1978. Tại Nhật Bản, ban đầu, dòng xe được biết đến với tên thường gọi Mitsubishi Forte cho đến khi dòng xe được tạm ngừng bán tại Thị trường trong nước vào năm 1986 & quay quay về vào năm 1991 với tên gọi mới: Mitsubishi Strada.

Xe Mitsubishi Triton là một trong những loại bán tải do công ty xe hơi Mitsubishi sản xuất. Lúc đầu, từ năm 1978 đến năm 1986, ở Nhật Bản, xe này mang tên là Mitsubishi Forte. Tiếp đến, tên xe được đổi thành Strada. Tại Hoa Kỳ, 2 bản nhập khẩu của xe Forte được Chrysler Corporation bán kể từ năm 1979 có tên là Dodge Ram 50 và Plymouth Arrow Truck. Năm 1982, khi Mitsubishi tự mình nhập trực tiếp loại xe này để trực tiếp bán ở trên thị trường Hoa Kỳ. Xe được gọi là Mighty Max và kể từ đó nhãn hiệu Plymouth cũng chấm dứt. Trên hầu hết các thị trường xuất khẩu, xe này được gọi bằng tên L200 mặc dù nó còn được gọi là Rodeo, Colt Bakkie, Storm, Magnum và các tên khác.

Xe Triton thế hệ thứ 4 sản xuất bởi Mitsubishi Motors (Thailand), một doanh nghiệp con của Mitsubishi tại Thái Lan ra mắt vào năm 2005. Đây là thiết kế của Akinori Nakanishi và được xuất khẩu tới 140 Thị trường trên toàn cầu. Tổng số lượng xe xuất kho của 3 thế hệ trước đã vượt qua con số 2,8 triệu trên toàn cầu.

Mẫu xe được lắp ráp qua năm thế hệ:

  • Thế hệ thứ nhất: 1978 – 1986
  • Thế hệ thứ hai: 1987 – 1996
  • Thế hệ thứ ba: 1996 – 2005
  • Thế hệ thứ tư: 2006 – 2014
  • Thế hệ thứ năm: 2015 - nay

Tổng sản lượng tiêu thụ của 3 thế hệ đầu tiên quá mức cần thiết 2.8 triệu chiếc trên toàn cầu. Triton được tung ra Thị trường Việt Nam từ thời điểm tháng 12/2008 qua con đường nhập trực tiếp nguyên chiếc (CBU).

Tháng 12 năm 2008, Mitsubishi Triton thế hệ thứ 4 được bắt đầu ra mắt vào Thị trường Việt Nam bởi doanh nghiệp TNHH liên doanh sản xuất xe hơi Ngôi Sao, một doanh nghiệp con của Mitsubishi tại nước ta.

Mitsubishi Triton thế hệ thứ I (1978 – 1986)


Mẫu xe bán tải cỡ nhỏ thế hệ thứ nhất của Mitsubishi được bán lần đầu tiên tại Nhật Bản với tên thường gọi Mitsubishi Forte vào năm 1978 & thường xuyên cho đến thời điểm cuối năm 1986, khi dòng này bị hủy bỏ tại Thị trường trong nước Nhật Bản trong 5 năm. Tại Nhật Bản, Forte ban đầu được bán với động cơ 4G32 123 mã lực, trong tương lai, nó đã được update lên động cơ G32B 115 HP với hệ dẫn động 4 bánh.

trong các phiên bản xuất khẩu, bản xăng 2.0 lít có 93 Mã lực Trong khi còn có tồn tại động cơ 2.6L 105 HP. Cũng thịnh hành ở nhiều thị trường, là động cơ diesel 2,3 lít với sức manh 73 Mã lực.

Dodge Ram 50 anh em của Triton tại Mỹ​


Dodge Ram 50 (được gọi là Dodge D-50 cho năm 1979 & 1980) là bản anh em của Triton được bán bởi Chrysler Corporation từ thời điểm năm 1979 trở đi kéo dãn đến năm 1994. Plymouth cũng nhận được một bản của chiếc xe tải được gọi là xe tải Plymouth Arrow, được bán từ năm 1979 đến 1982. Đây là câu trả lời muộn màng của Chrysler cho Ford Courier từ Mazda và Chevrolet LUV của Isuzu (cả hai đã được giới thiệu vào năm 1972). Phiên bản của chính Mitsubishi đã nhập nó với tên thường gọi Mitsubishi Mighty Max khi nó bắt đầu bán trực tiếp tại Mỹ từ thời điểm năm 1982, tại thời điểm đó, hãng Plymouth đã không còn nữa.

Mitsubishi Triton thế hệ thứ II (1987 – 1996)


Phiên bản thế hệ thứ hai được trình làng vào năm 1986 cho đa số các thị trường. Tại Úc, dòng xe này công bố hồi tháng 10 năm 1986 với tên gọi Triton. Tại Nhật Bản, xe bán tải đã không được bán trong một vài năm. Sự trở lại là phiên bản Strada ở Nhật Bản vào tháng 3 năm 1991. Một cuộc cách tân đã ra mắt cho năm phiên bản năm 1993, với lưới tản nhiệt mới & cản nhựa mới.

Mitsubishi Triton liên tục được lắp ráp cho đến năm 1996. Doanh số tại Thị trường nội địa Nhật Bản liên tiếp tăng vào giữa năm 1997. Xe tải thường có động cơ diesel 68 Mã lực hoặc động cơ diesel 82 HP. Với turbo diesel là động cơ duy nhất có sẵn trong Thị trường nhà ở Nhật Bản. Triton không hẳn là 1 trong những chiếc xe tốc độ, với một kiểu dáng động cơ dẫn động bốn bánh V6 có tốc độ nhanh nhất chỉ 126 km/h.

Xe tải Mitsubishi thế hệ thứ hai cũng được sản xuất tại Thái Lan. Ở Mỹ, nó được biết đến với chiếc tên Mitsubishi Mighty Max hoặc Dodge Ram 50. Động cơ xăng gồm một động cơ 2.0 lít bốn xi-lanh 92 HP hoặc ditto 2,6 lít với 109 Mã lực. Phiên bản dẫn động 4 bánh cũng được trang bị.

Ram 50 được thiết kế lại cho năm 1987, chính là năm mà Chrysler giới thiệu người tiếp theo của Ram 50, Dodge Dakota. Tuy nhiên, doanh số của Ram 50 vẫn tiếp tục được bán ra trong bảy năm nữa cho đến năm 1994. Có thể là do Ram 50 nhỏ gọn & Dakota có kích thước trung bình. Sự khác hoàn toàn về kích thước và giá cả đã để lại một chỗ đứng cho Dodge 50 & việc hủy bỏ nó rất có thể là do mong muốn biểu thị sự độc lập với Mitsubishi hơn là do bất kỳ sản phẩm nào trùng lặp. Mighty Max đã bị ngừng sản xuất sau năm phiên bản năm 1996 & người kế nhiệm của nó không được bán ở Bắc Mỹ do doanh số kém.

Mitsubishi Triton thế hệ thứ III (1996 – 2005)


Năm 1996, một phiên bản thế hệ mới đã được giới thiệu với động cơ turbin động cơ 2,5 lít cách tân và phát triển 103 Mã lực. Các tùy chọn động cơ khác bao gồm hai động cơ xăng phun nhiên liệu mười sáu valve và động cơ diesel hút khí tự nhiên. Đơn vị 2,6 lít trước đó đã được thay thế bằng động cơ 2,4 lít mới, mạnh hơn đáng kể với 145 HP.

Chiếc xe nhập cuộc cuộc đua Dakar năm 2005. Việc sản xuất chấm dứt vào năm 2006. Chúng chỉ được sản xuất tại Laem Chabang, Thái Lan & cũng được xuất khẩu sang Nhật Bản từ thời điểm năm 1997 đến 1999.

Vào cuối năm 2001, chiếc xe bán tải thế hệ thứ 3 đã thông qua một cuộc tinh chỉnh Facelift với chóa đèn pha mới và những thay đổi cải biên.

Mitsubishi Challenger 1996


Một kiểu dáng xe đa dụng được phát triển từ Mitsubishi Triton, được gọi là Mitsubishi Challenger đã được ra mắt tại Nhật Bản vào năm 1996. Ở Thị trường quốc tế, nó cũng được gắn huy hiệu là Montero Sport, Pajero Sport, Shogun Sport hoặc Nativa. Challenger chia sẻ nhiều phần tử và một vài tấm thân xe (tức là cửa trước) với bán tải Strada & sử dụng chiều dài cơ sở của Mitsubishi Pajero thế hệ thứ hai . Challenger cũng được lắp ráp tại Thái Lan với tên thường gọi Mitsubishi Strada G-Wagon.

Mitsubishi Triton thế hệ thứ IV (2006 – 2014)


Triton thế hệ thứ tư được ra mắt vào năm 2005. Có thiết kế bởi Akinori Nak Biếni , nó được chế tạo độc quyền bởi công ty con của Mitsubishi tại Thái Lan và được xuất khẩu tới 140 Thị trường toàn thế giới. Nó chủ yếu được gọi là L200 ngoại trừ Nhật Bản & các Thị trường của các nước nhà doanh nghiệp con. Chiếc xe có động cơ turbin động cơ 2,5 lít cải tiến và phát triển 180 Mã lực.

Tại Nhật Bản, Triton được trang bị đặc quyền động cơ xăng 3,5 lít và hộp số tự động AT 4 cấp và được bán từ năm 2006 đến 2011 - chiếc xe pickup duy nhất ở trên thị trường vào thời đặc điểm đó. Dù rằng thành công ở quốc tế, đó là 1 trong những thất bại nghiêm trọng ở Nhật Bản khi các công nhân & thương nhân ưa thích xe tải & xe van. Kết quả là, trong tháng 8 năm 2011, Triton đã được rút ra khỏi đội hình Nhật Bản của Mitsubishi.

Mitsubishi Triton thế hệ thứ V (2015 – nay)


Vào năm 2014, Mitsubishi đã được vén màn L200 hoàn toàn mới đã được bán vào thời điểm đầu năm 2015 (Châu Á Thái Bình Dương) và thời điểm cuối năm 2015 (Châu Âu và Caribê). Nó được trang bị động cơ diesel 2,4 lít mới. Kể từ năm 2015, L200 thế hệ hiện tại có cùng nền tảng gốc rễ với Fiat Fullback mới được tinh chỉnh dành cho Thị trường Châu Âu và Trung Đông.

Bên cạnh đó, do bị ảnh hưởng bởi sự thất bại nghiêm trọng của Triton thế hệ trước tại Thị trường Nhật Bản (trái ngược với thành công ở nước ngoài), ngoài những việc có thuế tiêu thụ quan trọng đặc biệt nặng cho xe pickup ở đó, Mitsubishi Motors hiện không có kế hoạch mang Triton hiện tại đến Thị trường quê hương của bọn họ.

Mitsubishi Triton Facelift 2019


Vừa được ra mắt chính thức tại Thị trường Thái Lan, không khó để nhận biết điểm khác biệt lớn nhất của Pajero Sport 2019 đối với đời cũ. Tuân thủ theo ngôn ngữ Dynamic Shield cập nhật mới nhất, tổng thể đầu xe đã được Mitsubishi thiết kế lại góc cạnh hơn gần giống Triton hay Xpander. Với đèn pha lớn nằm bên dưới cản trước và phía ở trên là đèn định vị ban ngày LED nối liền với nhau bởi 3 thanh ngang to bản. Với sự thay đổi này, nắp ca-pô cũng được tái thiết kế cao rộng hơn, khiến dáng xe trở nên khoẻ khoắn.
 

Bài viết mới

Bên trên