Tìm hiểu các thế hệ Subaru Outback

Chau@Xe

Administrator
Subaru-Outback-min.jpg

Subaru Outback là dòng xe được Fuji Heavy Industries lắp ráp và ra mắt trên thị trường từ thời điểm năm 1995 đến nay. Outback được thiết kế dựa ở trên nguyên mẫu Subaru Legacy. Ngoại trừ bản Outback Sport được sản xuất từ Impreza Hatchback.

Mẫu xe này được phân phối tại Nhật Bản với tên gọi Legacy Grand Wagon. Sau đó đổi tên thành Legacy Lancaster cho năm mã sản phẩm 1997. Từ thời điểm năm 2004, tên gọi Outback được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu. Toàn bộ các kiểu xe Subaru Outback đều được trang bị hệ dẫn động hai cầu Cầu chủ đông tiêu chuẩn.

Subaru Outback được chia thành 2 dòng và được cải tiến và phát triển riêng biệt

Subaru Outback (Legacy)


Outback ban đầu có nguồn gốc từ biến thể của chiếc Subaru Legacy với trang bị giá để tư trang hành lý ở trên nóc xe. Trước đó, một biến thể "Touring Wagon" mui trần đã được cung ứng trên Subaru Leone. Subaru cũng đã bán một biến thể mái nâng (mã khung gầm BF). Chiếc wagon Legacy thế hệ thứ hai đang trở thành thế hệ đầu tiên của dòng wagon Outback. Được gọi là Legacy Grand Wagon tại Japan vào năm 1995.

Thế hệ thứ I (1994 – 1999)


Khi được ra mắt tại Úc vào năm 1996, "Legacy Outback" đã được rút ngắn đơn giản thành "Outback". Impreza Outback Sport được trình làng tại Triển lãm xe hơi New York năm 1996

Được trang bị động cơ 2.2L cùng EJ22 vốn được sử dụng trên Legacy. Kiểu xe Legacy Outback năm 1995 phần lớn bị giới hạn trong việc biến đổi hình dáng phía bên ngoài. Lốp xe lớn hơn tương tự như sửa đổi trên mẫu Legacy Outdoor năm 1994 trước đó.

Phiên bản mui trần của Outback ban đầu được bán ở trên thị trường dưới dạng thử nghiệm giới hạn 300 chiếc ở New England với tên thường gọi Legacy SUS (Sport Utility Sedan) vào năm 1997

Thế hệ thứ II (2000 – 2004)


Ở Bắc Mỹ, Subaru Outback và Subaru Legacy mới được ra mắt vào năm 1999 với đời xe năm 2000. Legacy SUS trở thành dòng xe xe Outback từ đây. Thế hệ này cũng chứng kiến sự ra mắt của 3.030L EZ30, là động cơ sáu xi-lanh Subaru đầu tiên. EZ30 đã được giới thiệu tại New York Auto Show hồi tháng Tư năm 2000 & cũng được trang bị trên 2 mẫu xe khác của Subaru là Alcyone và SVX Sport.

Thế hệ thứ III (2005 – 2009)


Các thế hệ thứ tư của Legacy là cơ sở cho thế hệ thứ hệ 3 Outback. Outback đã được công bố tại Frankfurt Motor Show trong tháng 9 năm 2003. Được trang bị 2 dòng đồng cơ2.5L EJ25 hoặc 3.0L EZ30.

Kiểu dáng bên trong và bên ngoài của toàn bộ dòng Legacy, bao hàm Outback, đã được cập nhật vào giữa năm 2006. Mẫu xe Outback. Ở Bắc mỹ năm 2007 không có thế hệ Outback nào được sản xuất.

Thế hệ thứ IV (2009 – 2014)


Outback thế hệ thứ tư đã có mặt cùng với sự ra đời của Legacy thế hệ thứ năm, được bán trên Thị Trường bên dưới dạng xe date 2010 ở Bắc Mỹ và được gọi là Outback ở trên toàn thế giới. Outback thế hệ thứ tư đã được trình làng tại Triển lãm xe ôtô quốc tế New York vào thời điểm tháng 4 năm 2009.

So với thế hệ thứ ba, Outback mới rộng hơn 50 milimet (2.0 in) & cao hơn 105 mm (4.1 in), nhưng chiều dài toàn bộ đã giảm 20 milimet (0.79 in). Các lốp xe được dời ra các góc của xe. Chiều dài cơ sở dài hơn 70 mm giúp tăng khoảng không cho khoang hành khách phía sau.

Subaru Outback Facelift 2013


Vào năm 2013, khối động cơ 3.0L EZ30 được thay thế sửa chữa bằng một động cơ mới 3.6L EZ36. EZ36 cũng hỗ trợ tăng công suất sử dụng nhiên liệu tốt hơn đối với động cơ 3.0 cũ. Bản 2.5L EJ25 Boxer-4 được giữ lại cho bản Base. Ở châu âu, Outback cũng có sẵn 1 phiên bản với động cơ diesel 2.0L EE20.

Thế hệ thứ V (2015 – 2019)


Outback thế hệ thứ năm có mặt vào năm 2014 với Legacy thế hệ thứ sáu. Vẫn gắn huy hiệu Outback Outacy cho Nhật Bản. Outback thế hệ thứ năm vẫn không thay đổi động cơ 2.5L FB25 và 3.6L EZ36 từ phiên bản cải tiến Facelift 2013

Thế hệ thứ VI (2020 – nay)


Subaru Outback thế hệ thứ sáu đã được công bố tại Triển lãm xe ôtô New York vào ngày 17 tháng 4 năm 2019. Outback có thiết kế lại này không thay đổi kiểu dáng Station Wagon và Crossover SUV trong khi vẫn nhận được một vài những thay đổi. Chẳng hạn như đèn sau xe mới (tương tự như đèn sau xe trên Forester & Legacy 2020. Đồng thời những trang thiết bị nội ngoại thất cũng rất được cập nhật hiện đại.

Outback 2020 chuyển thành cơ cấu toàn thế giới của Subaru. Khung gầm được gia cố cứng hơn dựa trên một cơ sở chung để có thể chấp nhận được việc sử dụng các hệ truyền động khác. Ví dụ như hybrid hoặc hoàn toàn vận hành bằng điện.

Outback thế hệ thứ sáu được trang bị động cơ 2.525L FB25 ; động cơ 2.424L FA24 tăng áp lần đầu tiên được sử dụng ở trên Subaru Ascent. Hỗ trợ công suất, mô-men xoắn và mức tiêu thụ nhiên liệu được cải thiện so với động cơ 3.6L EZ36 đã ngừng sản xuất .

Subaru Outback Sport (Impreza)


Thế hệ thứ I (1994 – 2001)


Impreza Outback Sport 1995 lần thứ nhất được ra mắt vào năm 1994. Xe được trang bị dẫn đồng 4 bánh cùng với hệ thống 4 thắng đĩa. Động cơ tiêu chuẩn là 1 trong những 1.8L EJ18 với hộp số sàn, nhưng một hộp số tự động AT được trang bị với động cơ 2.2L EJ22 từ Legacy. Trong khi, Outback Sport đã nhận được một giá nóc & dè xe lớn. Mặc dù nhưng khoảng không bên phía trong vẫn đủ thoáng rộng. Khối động cơ tiêu chuẩn là 1 trong những 1.8L EJ18 với Hộp số tay, nhưng một hộp số tự động là khả dụng với to hơn 2.2L EJ22 từ Legacy. Outback Sport có giá rẻ hơn & hướng đến người tiêu dùng trẻ tuổi hơn so với Outback dựa ở trên Legacy.

Thế hệ thứ II (2001 – 2007)


Subaru ở Bắc Mỹ đã công bố thế hệ tiếp theo sau vào năm 2001 cho năm mô hình 2002 dựa trên Impreza thế hệ thứ hai . Ở Úc, Impreza RV tích hợp những đổi khác kiểu dáng gần giống.

Thế hệ thứ III (2007 – 2011)


Subaru ở Bắc Mỹ đã công bố thế hệ tiếp theo sau vào năm 2007 cho loại hình năm 2008 dựa ở trên Impreza thế hệ thứ hệ thống hỗ trợ phanh BA .

Subaru đã ra mắt Impreza XV dành riêng cho Thị trường châu âu tại Triển lãm xe hơi Geneva 2010. Các phiên bản XV thông qua những biến đổi tương tự đã được triển khai cho USDM Outback Sport. Nhưng khái niệm XV sử dụng 2.0L turbodiesel EE20 hoặc 2.0L Turbo EJ20 khối động cơ có sẵn ở trên các dòng Impreza phiên bản châu âu.

Subaru XV Crosstrek 2013


Subaru đã ngừng sử dụng bảng tên Outback Sport vào năm 2011. Outback Sport đã được thay thế vào năm 2012. Outback Sport đã được sửa chữa thay thế vào năm 2012. XV Crosstrek trông rất nổi bật với hệ thống treo được cải tiến cung ứng chiều cao gầm 220mm. Doanh số của XV Crosstrek mạnh hơn nhiều so với Outback Sport trước đây.
 

Bài viết mới

Bên trên